Suy niệm Lời Chúa: Thứ Tư tuần III Phục Sinh
SỐNG ĐỜI SỐNG YÊU THƯƠNG, KHÔNG LOẠI TRỪ
(Cv
8:1b-8;
Ga 6:35-40)
Lm.
Antôn Nguyễn Ngọc Dũng, SDB
Có một định luật trong đời rằng: mục đích của khó
khăn là để chứng tỏ sức mạnh. Có thể chúng ta đã chứng kiến một mầm cây mọc lên; nếu
chúng ta lấy một cái gì đè lên nó, nó sẽ tìm cách len lỏi và vươn lên.
Một con vật cũng thế, khi nó muốn một cái gì, nó không bao giờ bỏ cuộc, dù có
khó khăn như thế nào. Nó chỉ bỏ cuộc khi sự vật đó không còn hiện hữu. Định
luật này cũng xảy ra trong đời sống con người. Khó khăn xảy ra không phải để làm
chúng ta nản chí và bỏ cuộc. Mục đích của khó khăn là tôi luyện chúng ta về đức
kiên nhẫn và hy vọng, làm cho chúng ta sáng tạo hơn và thử thách sự trung thành
của chúng ta. Một người bỏ cuộc khi gặp khó khăn thì người đó chứng tỏ mình chỉ
sống theo nguyên tắc: “thuận theo chiều gió” [gió thổi chiều nào, tôi theo
chiều đó].
Bài đọc 1 hôm nay trình bày cho chúng ta về hoàn cảnh của Hội Thánh Tiên
Khởi ở Giêrusalem bị bắt bớ. Việc bắt bớ này đã không làm các Tông Đồ bỏ cuộc,
nhưng trở nên sáng tạo hơn trong việc rao giảng của mình. Các Ngài không còn
nhóm họp một chỗ như trước, nhưng tản mác về các vùng quê (x. Cv
8:1b). Chính điều này, các Tông Đồ mới dần hiểu được mệnh lệnh của Chúa Giêsu:
hãy đi khắp nơi mà rao giảng cho muôn người. Nhìn tứ khía cạnh này, chúng ta có
thể nói rằng: Thiên Chúa có thể dùng hoặc cho phép những khó khăn xảy ra để kế
hoạch của Ngài cho chúng ta được thực hiện.
Hình ảnh của Saolô mà chúng ta nghe trong câu cuối
cùng của bài đọc 1 hôm qua càng ngày càng trở nên đáng sợ hơn cho các tin hữu:
“Còn ông Saolô thì cứ phá
hoại Hội Thánh: ông đến từng nhà, lôi cả đàn ông lẫn đàn bà đi tống ngục” (Cv 8:3). Vì sự phá hoại
Hội Thánh của Phaolô làm cho các Tông Đồ “phải tản mác này đi khắp nơi loan báo lời Chúa” (Cv 8:4). Điều này lặp lại
tư tưởng chúng ta vừa đề cập ở trên: Thiên Chúa có thể mang lại những điều tốt
lành từ những “sự dữ” mà con người tạo ra. Chi tiết này giúp chúng ta vững tin
và có cái nhìn lạc quan trước những khó khăn và đau khổ người khác
tạo ra cho mình: Đối với con người thì không thể, nhưng đối với Thiên Chúa, mọi
sự đều có thể” (Mt 19:26).
Trong số các Tông Đồ, Thánh Philiphê, được kể đến, là người đầu tiên
thực hành sứ vụ rao giảng ở một thành miền Samaria. Thánh nhân không chỉ rao
giảng Đức Kitô bằng lời, nhưng còn bằng những dấu lạ kèm theo. Những dấu lạ
thánh nhân thực hiện là những điều Chúa Giêsu đã thực hiện trong cuộc đời sứ vụ
của Ngài, đó là trừ quỷ và chữa bệnh: “Thật vậy, các thần ô uế vừa kêu lớn tiếng vừa xuất
khỏi nhiều người trong số những kẻ bị chúng ám. Nhiều người tê bại và tàn tật
được chữa lành” (Cv 7:7). Chính
đời sống chứng tá và rao giảng bằng lời và hành động này làm cho “trong thành, người ta rất vui mừng” (Cv 7:8). Về phần chúng
ta, những lời nói và hành động trong ngày sống của chúng ta có mang lại niềm
vui cho người khác không?
Câu mở đầu của bài Tin Mừng hôm nay lặp lại câu kết
của bài Tin Mừng hôm qua để nói lên việc Chúa Giêsu chính “là bánh trường sinh.
Ai đến với tôi, không hề
phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ” (Ga 6:35). Nhưng người Do Thái không tin dù đã thấy
dấu lạ Ngài thực hiện. Không chỉ thấy dấu lạ, họ con nhìn thấy Đấng làm dấu lạ
mà vẫn không tin. Điều này đôi khi cũng xảy ra trong ngày sống của chúng ta. Chúng ta đã
chứng kiến nhiều dấu lạ Chúa thực hiện, nhưng chúng ta không chỉ không tin vào
dấu lạ mà còn không tin vào Đấng thực hiện dấu lạ đó.
Điều đầu tiên chúng ta cần suy gẫm là tâm tình đầy
yêu thương của Chúa dành cho mỗi người trong chúng ta, những con người yếu đuối
tội lỗi, khi đến với Ngài: “Tất cả những
người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, tôi sẽ không
loại ra ngoài, vì tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý
tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi”
(Ga 6:37-38). Những lời đáng để chúng ta suy gẫm là: “ai đến với tôi, tôi sẽ
không loại ra ngoài.” Chúng ta phải thú nhận rằng, nhiều lần trong cuộc sống,
chúng ta đã không đón tiếp anh chị em của mình khi họ đến với chúng ta. Chúng
ta loại trừ họ ra khỏi con tim và cuộc sống của mình khi họ làm chúng ta tổn
thương hoặc khi họ không thuộc về “những người chúng ta tuyển chọn.” Chúa Giêsu
nêu gương cho chúng ta. Ngài không loại trừ một ai. Ngài đón tiếp từ người giàu
đến người nghèo, từ người có học thức đến người thất học, từ người có địa vị
cho đến người không có tiếng nói trong xã hội, từ người cùng quê hương của mình
đến những người ngoại tộc. Ngài đón tiếp hết mọi người, quan tâm đến nhu cầu
của họ và làm những gì tốt nhất cho họ. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn
lại con tim và cách đối xử của mình với người khác: hãy đón tiếp mọi người như
Chúa Giêsu hằng đón tiếp chúng ta ngay cả khi chúng ta phạm tội và trở về với
Ngài.
Sống trong xã hội bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa cá
nhân, chúng ta thường đề cao ý riêng của mình. Chúng ta thường cảm thấy mất tự
do khi phải làm theo mệnh lệnh [ý] của người khác; nếu có làm theo, chúng ta
thường cảm thấy khó chịu và nặng nề. Một trong những điều trái ngược là ai
trong chúng cũng muốn đi tìm thánh ý Thiên Chúa để thực hiện. Nhưng khi thánh ý
Thiên Chúa được tỏ hiện và dường như “ngược” với điều chúng ta muốn, chúng ta
trở nên chống đối và mất niềm tin. Chúng ta tìm đủ mọi cách để biện minh và
giải thích theo ý mình về thánh ý Chúa.
Điểm cuối cùng chúng ta suy gẫm trong bài Tin Mừng
hôm nay là việc Chúa Giêsu trình bày cho chúng ta ý của Chúa Cha là gì: “Mà ý của Đấng
đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai,
nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Thật vậy, ý của Cha tôi
là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời,
và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6:39-40). Từ những lời này, Chúa Giêsu cho chúng ta biết thánh ý
của Chúa Cha là chúng ta “không bị vuột mất khỏi vòng tay yêu thương của Chúa
Giêsu.” Chúa Cha muốn tất cả chúng ta được cứu độ, được sống lại trong ngày sau
hết. Tuy nhiên, Chúa
Giêsu cũng giải thích thêm:
để đạt được sự sống đời đời hay không phải hư mất đi, chúng ta phải tin vào Ngài sau khi đã “thấy”
Ngài. Như vậy, vấn đề quan trọng ở đây không phải là nhìn thấy dấu lạ mà “nhìn
thấy Đấng làm dấu lạ” và tin vào Ngài.